Friday, 16 November 2012

TỲ BÀ HÀNH THI CẢM

Canh khuya trầm bổng một cung đàn
Trải đời kỷ nữ mỗi câu ca
Tầm Dương một thuở lệ ai rơi
Sông trôi bèo giạt cánh hoa tàn
Ta và nàng phận đời lưu lạc
Cùng một nỗi bên trời lận đận
Lòng kẻ từ quan buồn nhân thế
Tình nàng cầm nữ quá thì xuân

Tỳ bà vẳng khúc thiên tình hận
Tâm sự nghìn thu gửi thế gian


ntrinh 17 -nov- 2012


Sunday, 7 October 2012

CHÉM GIÓ

                                                       





                                                                   CHÉM GIÓ

                                                  Rút đao chém gió, gió càng thổi
                                                  Hạ bút làm thơ thơ chẳng đến
                                                  Đã toan quay gót  lui về núi 
                                                  Chợt nhớ còn quên chén rựợu nồng

                           
                                                  ntrinh
                                                  07-10-3012

Sunday, 30 September 2012

TẠI SAO LÀ " BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO? "


PHI LỘ
Nhân anh Song có đưa ra đề tài TẠI SAO LÀ" BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO" MÀ KHÔNG PHẢI LÀ BÌNH MINH ĐẠI CÁO.( Lê Lợi đánh thắng quân Minh)
Xin mời anh em bình luận cho vui trên tinh thần học hòi để mở mang kiến thức.


COMMENTS

(1) Ông tổ nhà Minh  Chu Nguyên Chương là người đất Ngô. Tỉnh An Huy ngày nay (theo Đoạn trích English bên dưới)

  (2) Dân ta ngày xưa gọi giặc tàu chung là giăc Ngô có lẻ từ thời Đông Ngô qua xâm lược riềt rồi quen.
  Cũng như hễ cứ xe gắn máy là Honda không cần biết nó có thể là Suzuki, Yamaha ...

   ví dụ câu ca dao   GIẶC BÊN NGÔ KHÔNG BẰNG BÀ CÔ BÊN CHỒNG
  Thâm ý của Nguyễn Trãi  gọi  " BÌNH NGÔ " xin coi bên dưới

 (3) Một điều trùng hợp lý thú là Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương  & Lê Thái Tổ Lê Lợi đều xuất thân từ tầng lớp nông dân áo vải.

NTRINH


THAM KHẢO:

Bình Ngô đại cáo literally means Great Proclamation upon the Pacification of the Wu in which Wu (Ngô) was the ancestors's land (nowFengyang CountyAnhui) of Zhu Yuanzhang, the founder of the Ming Dynasty. In 1356, Zhu Yuanzhang himself took the title Duke of Wu (吳國公) and later King of Wu (吳王, in Vietnamese: Ngô Vương). Therefore one could reason that Nguyễn Trãi named his work Pacification of the Wu instead of Pacification of the Ming in order to subtly emphasize the victory of Đại Việt and the failure of the Ming Dynasty which was called by its origin's name Wu in the proclamation.





Việc gọi như vậy thể hiện chủ trương đối ngoại của nước ta. Trung Hoa là nước lớn, nước Việt ta thì nhỏ nên dù đánh thắng họ nhiều lần nhưng vẫn luôn phải giữ lễ như nước chư hầu (năm nào cũng triều cống, vua mới lên ngôi phải cử sứ thần sang báo cáo...). Lê Lợi đã đánh đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi nhưng cũng phải dè chừng việc họ quay lại. Chính vì vậy nên Lê Lợi đã không thể "đuổi cùng giết tận" hết quân Minh mà vẫn phải:

"Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run." (trích bản dịch Bình Ngô Đại Cáo của Ngô Tất Tố) 

Ngay từ lúc đánh đuổi quân Minh chưa xong, Lê Lợi đã phải sai người sang Trung Quốc xin nhà Minh phong Trần Cảo (hậu duệ nhà Trần) làm An Nam Quốc Vương, tức là vẫn giữ lễ chư hầu. Việc gọi thẳng là Bình Minh Đại Cáo sẽ là một hành động xúc phạm tới thể diện nước lớn, không có lợi về mặt đối ngoại. Nguyễn Trãi viết là Bình Ngô Đại Cáo vừa có ý tứ sâu cay (vì Minh Thành Tổ Chu Nguyên Chương - vị vua đầu tiên của nhà Minh - là người đất Ngô) mà vừa thể hiện sự tôn trọng nước lớn khi không chỉ đích danh họ.

Mặt khác, ta cũng phải thấy rằng Bình Ngô Đại Cáo là một văn bản mang tính đối nội nhiều hơn. Và văn bản lưu hành trong nước thì sẽ sử dụng những khái niệm phổ biến nhất cho nhiều người cùng hiểu. Dân ta khi đó quen gọi người Trung Hoa là Ngô. Về việc tại sao lại gọi là người Ngô thì có nhiều giả thiết, phổ biến nhất là chuyện giặc Đông Ngô tàn ác đô hộ nước ta.

Vấn đề bạn hỏi là tại sao không gọi là “giặc Minh” mà viết là “giặc Ngô”? Đây là một sự kiện lịch sử mà theo chỗ tôi được biết đã bắt nguồn từ gốc nhà Minh bên Trung Quốc.
Nhà Minh là nhà nước phong kiến phương Bắc tiếp nối 11 đời vua nhà Nguyên (1271-1368). Chu Nguyên Chương lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà Nguyên, mở ra nhà Minh. Nhà Minh trị vì Trung Quốc được cả thảy 277 năm, gồm 16 đời hoàng đế (bắt đầu từ Minh Thái tổ: 1368-1398 đến Minh Tư Tông: 1627-1644). Giặc Minh xâm chiếm nước ta vào đời vua Minh Thành Tổ (1407) và rút quân bại trận ở chiến trường Đại Việt vào đời vua Minh Tuyên Tông (1427).
Minh Thái Tổ là vị vua khai sáng nhà Minh, tên thật là Chu Nguyên Chương,  đi tu ở chùa Hoàng Giác. Thời thanh niên, Chu Nguyên Chương tham gia nghĩa quân Hồng Cân chống lại ách thống trị của nhà Nguyên. Nhưng sau thấy lực lượng Hồng Cân thiếu chặt chẽ, ô hợp nên Chu Nguyên Chương rời bỏ tổ chức này để lập quân đội riêng, thuộc lực lượng Minh giáo (Manichéisme).
Năm 1363, Chu Nguyên Chương đánh tan đạo quân Nguyên và năm sau (1364) xưng hiệu là Ngô Vương. Chẳng bao lâu, Chu Nguyên Chương dẹp tan lần lượt các đạo quân của nhà Nguyên, thống nhất vùng lãnh thổ phía nam Trung Quốc rồi thôn tính cả Trung Nguyên. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Minh.
Đời vua Minh Thành Tổ (tên Chu Lệ, con trai của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương), giặc Minh xâm lược nước ta. Đến đời Minh Tuyên Tổ (tên Chu Chiêm Cơ, cháu cố của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương) thì thất bại rút quân về phương Bắc. Dù nhà Minh tự xưng là “Minh” (chữ “Minh” trong khái niệm Minh giáo có nghĩa là “sáng”) nhưng vì đó là giặc xâm lược nên dân ta lúc bấy giờ không gọi nó là “Minh” mà gọi là “Ngô”.
Dân ta lấy danh hiệu của cha đẻ và ông cố nội của vua họ (Ngô Vương - người sáng lập triều Minh) mà gọi chửi. Dân ta gọi đó là “giặc Ngô” chứ không gọi “giặc Minh” và Bình Ngô đại cáo có nghĩa là bài cáo để tuyên bố rộng rãi cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh của nhân dân ta đã thành công, thắng lợi.


*** Trong bài phân tích tp "Bình Ngô đại cáo" của ĐH Cần Thơ
có nêu 3 quan niệm khác nhau về ý nghĩa của chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo như sau:
- Ngô: Một cách gọi theo thói quen của người Việt Nam thời đó để chỉ chung người Trung Quốc.
- Ngô: tên vùng đất xuất thân của Chu Nguyên Chương (tức Minh Thành tổ).
- Ngô: Một cách gọi của nhân dân để chỉ những tên giặc gian ác, tàn bạo.
Trong 3 cách này, cách thứ 2 (cũng là cách trong Wikipedia mà Nhơn đã dẫn) có vẻ  thuyết phục với tôi hơnTrong văn hoá của mình, khi ghét ai có thể mình lôi dòng họ, tổ tiên người ta ra để xỉa xói nhất là nếu tổ tiên họ có điều gì không hay. Có thể Nguyễn Trãi đã viết từ Ngô theo ý này (từ Minh=sáng ->tốt đẹp).
Còn cách 1 có lẽ cũng từ cách 2 mà ra nhưng hình như ít thấy lài liệu sách sử nào nói, trừ việc em chồng (gái) được các nàng dâu gọi là giặc Ngô. Tôi chưa đọc được chỗ nào nói (thời xưa dân ta gọi Tàu là giặc Ngô, trừ thời bà Triệu (giặc Đông Ngô) và cũng chưa biết chỗ nào nói ngày xưa dân chúng gọi giặc gian ác, tàn bạo là Ngô. Nếu có bằng chứng từ sử sách thì 2 cách này cũng có thể chấp nhận được, tuy nhiên tôi vẫn nghiện về cách thứ 2 hơn.
Có lẽ, nọi người cũng dễ thống nhất về đối tượng của bài cáo này là dân trong nước (đặc biệt là tầng lớp có học, những người có khả năng không chấp nhận triều đại mới là chính đáng) nên cách giải thích dùng từ "Ngô" thay vì "Minh" vì lí do ngoại giao, đối với tôi chưa thật thuyết phục. Hơn nữa, nếu nói là vì nhúng nhường nên không nêu trực tiếp mà kêu tổ tiên người ta ra chửi thì có thiệt là nhúng hay không?
Mong có cao kiến từ các bạn có chuyên sâu
.*** SONG PHAN

***
Trước hết muốn sửa sai Đại Học Cần Thơ đã nhầm lẩn :
  • Ngô: tên vùng đất xuất thân của Chu Nguyên Chương (tức Minh Thành Tổ) .
Chu Nguyên Chương là Minh Thái Tổ , Minh Thành Tổ là Chu Đệ người con thứ tư của ông .

  • Tại sao có cái tên "Bình Ngô Đại Cáo" (平吳大誥) ?
Cuối triều nhà Nguyên Mông Cổ năm 1355 ,  miền nam Trường Giang TQ bắt đầu có nhiều cuộc nổi loạn của nông dân , trong đó có nhóm Hàn Tống xưng vua thành lập nước "Tống" , Chu Nguyên Chương là phó nguyên soái của quân "Tống" . Năm 1366 khi đưa quân vượt Trường Giang vua của Hàn Tống bị đấm tàu chết , thấy vậy nắm lấy thời cơ Chu Nguyên Chương cải nguyên và tự xưng là Ngô Vương , đây là lần đầu cũng là lần duy nhất xuất hiện chữ "Ngô"  trong lịch sử Nhà Minh , “Ngô” trong "Bình Ngô Đai Cáo" chính là nói Ngô Vương Chu Nguyên Chương , chứ không Phải vì thói quen , vì đất Ngô vv... 
2 năm sau năm 1368 khi thế lực lớn mạnh đánh chiếm Ưng Thiên (Nam Kinh) rồi Ngô Vương Chu Nguyên Chương cải nguyên xưng Hồng Vũ Đế lập ra Nhà Minh .

  • "Bình Ngô Đại Cáo" xuất hiện trong tình thế nào ?
Năm 1398 Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương mất , vì thái tử Chu Tiêu đã mất sớm nên cháu là Kiến Văn Đế kế vị , nghi kỵ các ông chú làm loạn nên ra tay tiêu diệt thanh trừng , lúc bấy giờ Chu Đệ đang trấn giữ Đại Đô (Bắc Kinh) phương bắc thấy nguy liền ra tay trước đem quân đánh xuống nam tiến vào thủ đô thành Ưng Thiên , Kiến Văn Đế trốn mất Chu Đệ lên ngôi vua niên hiệu Vĩnh Lạc là Minh Thành Tổ , vì không thấy xác Kiến Văn Đế nghi đã thoát đào đi "vượt biên" nên sau này trong thời gian ông làm vua mới bảy lần sai quan thần Trịnh Hòa dẫn đoàn tàu viễn chinh đi lùng soát khắp nơi ở hải ngoại .
Năm 1406 vua Vĩnh Lạc Minh Thành Tổ lấy cớ là nhà Hồ Đại Ngu (tên VN lúc đó) đã giết hại vua Trần của họ nên muốn đưa quân cứu Việt Nam , trước khi đưa quân sang VN năm 1406 tướng Minh Trương Phó (張輔) ra hịch "Truyền hịch An Nam quan lại quân dân nhân đẳng" (傳檄安南官吏軍民人等) kể liệt 20 tội cha con Hồ Quý Ly , rồi có bài "Bình Nam Lộ Bố" (平南露布) tuyên bố xuất quân , khi tiêu diệt xong Nhà Hồ năm 1407 vua Minh Thành Tổ ra "Bình An Nam Chiếu" (平安南詔) . Đây là 3 bài hịch và chiếu của nhà Minh trong quá trình thôn tính VN .
Năm 1421 vì tình hình an ninh bất ổn phương bắc , Minh Thành Tổ quyết định rời đồ về Bắc Kinh và đổi Ưng Thiên là thành Nam Kinh từ đó .
Năm 1424  Minh Thành Tổ mất , thái tử Minh Nhân Tông kế vị một năm cũng mất , rồi cháu Minh Tuyên Tông Kế ngôi , tình hình triều đình nhà Minh thay 3 vị vua trong 3 năm liên tục vô cùng nguy kịch , nên khi Nguyễn Trãi An Nam nổi loạn thì Nhà Minh không còn sức chống cự nữa , Minh Tuyên Tông phải ra lệnh rút quân cho An Nam độc lập .
Để đối lại với 3 bài hịch và chiếu của nhà Mình trước đó , sau khi dành được hoàn toàn độc lập , Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Vua viết bài "Bình Ngô Đại Cáo" (平吳大誥) bằng văn ngôn Hán Tự vào năm 1427 , trong bài kể rất rõ quá trình chiến đấu có cả ngày tháng những trận đánh , một nhà văn TQ thời nhà Thanh nói đây là một bài "Thiên Cổ Hùng Văn" , còn một học giả TQ thời nay thì nói đây là một bài "Báo cáo tổng kết chiến tranh" tuyệt vời .
Vài lời góp ý chúc Anh Em khỏe ! Red rose
*** Ba Tran 19.09.2012

ĐÂU LÀ QUỐC ĐÔ ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT ?


Có bài viết này đặt lại vài vấn đề trong LS VN thời kì mở đầu cũng đáng chú ý:

ĐÂU LÀ QUỐC ĐÔ ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT ? 

KS. PHAN DUY KHA
Núi Hồng Lĩnh (tức Ngàn Hống) là một trong những danh sơn của đất nước được chọn khắc vào “cửu đỉnh” (9 chiếc đỉnh bằng đồng đặt ở sân Thế Miếu, kinh đô Huế). Núi nằm giữa ba huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc của tỉnh Hà Tĩnh. Tương truyền núi có 99 đỉnh, đỉnh cao nhất 676m. Theo Ngọc phả Hùng Vương thì chính ở phía Tây – Nam dãy núi này, ngày xưa là đô thành của Kinh Dương Vương.
Vị trí đó đã được Ngọc phả xác định tương đối cụ thể: ở chân núi Thiên Tượng thuộc làng Bình Lãng (tên cổ là Kẻ Vọt) và ở tả hữu Thiên Lộc, nội ngoại Thiên Lộc (thuộc hai xã Thiên Lộc và Phúc Lộc, huyện Can Lộc ngày nay). Đây là một vùng đất cổ. Theo một cuốn địa phương chí thì ở vùng Can Lộc này 2/3 số làng cổ có tên nôm là Kẻ, ví dụ: Kẻ Vọt (Bình Lãng), Kẻ Treo (Đậu Liêu), Kẻ Cài (Thanh Lộc), Kẻ Lù (Hồng Lộc), Kẻ Chòi (Tân Lộc)… Những làng này đều nằm ở phía Tây – Nam Ngàn Hống, trùm lên vị trí kinh đô xưa.
… Không phải ngẫu nhiên mà những người lập Ngọc phả lại ghi nhận nơi đây là quốc đô đầu tiên của ngươi Việt. Chúng ta biết rằng, ngay kinh đô Văn Lang của các vua Hùng, ngày nay chúng ta vẫn chưa xác định được vị trí cụ thể, thì việc một kinh đô có trước thời kỳ Hùng Vương hàng ngàn năm, lại được xác định một cách cụ thể như thế chứng tỏ rằng nó đã từng tồn tại lâu dài và để lại những dấu ấn đặc biệt.
Dấu tích vật chất và dấu ấn tinh thần của kinh đô Ngàn Hống
Dấu tích vật chất duy nhất còn lại là đài Trang Vương (còn gọi là Sở Trang Chỉ) mà nhiều người lầm tưởng là nên nhà của công chúa Diệu Thiện, do Sở Trang Vương xây dựng cho con gái (Xin được nói thêm: trong thời đại phong kiến, một số nhà nho có tư tưởng sùng ngoại thường hay gắn những di tích trên đất nước ta cho các nhân vật Trung Hoa. Ví dụ: tên núi Yên Tử, thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh, họ cho rằng do đạo sĩ Yên Kỳ Sinh người Trung Hoa, đời Tần sang tu luyện ở núi này mà có tên như thế (!). Vậy thử hỏi, núi Yên Phụ, cũng ở Đông Triều, cạnh Yên Tử, là do bố của Yên Kỳ Sinh đến tu luyện mà có tên như thế hay sao? Chính những sự gán ghép tùy tiện như thế gây rắc rối không ít cho những người nghiên cứu. Khi sử dụng loại truyền thuyết này, cần hết sức cảnh giác!).
Trở lại vấn đề của chúng ta. Đài Trang Vương nằm trên ngọn Hương Tích, có độ cao 500m, vị trí vào khoảng giữa của kinh đô Ngàn Hống. Sách. Đại Nam nhất thống chí ghi: “Núi Hương Tích, trên có thành đá, trong thành có nền ghép bằng đá, có 99 bậc gọi là đài Trang Vương…”. Nhà học giả Hoàng Xuân Hãn mô tả: “Đường lên chùa (tức chùa Hương Tích, nằm trên cùng một đỉnh núi với đài Trang Vương) gồ ghề và dốc. Nhiều chỗ phải bò mà vịn vào tảng mới qua chỗ hẻm. Lúc lên đến nơi thì một cảnh ngoạn mục bày ra trước mắt: một vạt sân rộng phẳng, tùng già bóng mát, tiếng gió thổi qua lá nhỏ, nghe như thổi sáo, gảy đàn” (La Sơn phu tử – NXB Văn học, theo bản in 1952). Như chúng tôi đã phân tích, đây không thể là công trình xây dựng của vua Sở Trang Vương như nhiều người lầm tưởng. Chúng tôi cho rằng đây có thể là đài quan sát thiên văn của bộ tộc Việt Thường. Chúng ta biết, bộ tộc Việt Thường đã làm được “quy lịch”. Mà muốn làm được lịch thì không thể không hiểu biết tường tận về bầu trời và khoa học quan sát thiên văn. Một đỉnh núi cao đến 500m, lại nằm giữa vùng đồng bằng là một vị trí quan sát thiên văn lý tưởng. Vì vậy, đài Trang Vương phải chăng là đài quan sát thiên văn của thời kỳ Việt Thường thị?
Dấu ấn tinh thần của kinh đô Ngàn Hống, theo chúng tôi, còn lại trong các truyền thuyết về lễ hội, trong đó có lễ hội đình Đụn mà chúng tôi đã đề cập tới (TGM 164). Lễ hội đình Đụn còn được truyền miệng trong một bài vè ở vùng này:
…Di truyền cổ tích
Dựng bốn cột làm đình .
36 gian rộng thênh
Khi lễ hội cáo thành
Làng cho hạ cột đình
Dân rước về Khe Hác…
(Vè đình Đụn)
Khe Hác là khe Nhà Trò. Bốn cột đình dựng lên, dù rộng bao nhiêu cũng chỉ là một gian, chứ sao được 36 gian (36 gian thì phải cần đến 74 cột!). Chúng tôi chưa giải thích được con số 36 này, nhưng con số 4 cột đình phải chăng tượng trưng cho 4 cột chống trời ở 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc trong quan niệm của người Việt cổ?
Một điều lý thú là ở cách vùng này trên chục cây số, tại xã Thạch Khê (Thạch Hà, Hà Tĩnh) cũng có truyền lại về lễ hội đình Đụn ở vùng này. Hàng năm, cứ đến rằm tháng 6, dân 4 giáp trong xã tổ chức tế lễ ở Đại Đình. Ở đó, người ta đắp một cái cồn cao và rộng, gọi là cồn Đình. Tại đây, 4 giáp dựng 4 cột gỗ lim ở 4 góc cồn Đình và cũng gọi là 4 cột đình Đụn. Tế lễ xong lại dỡ cột đình đem cất đi. Có lẽ trên đất nước ta, chưa ở đâu có cách tế lễ độc đáo như thế! Đụn là một từ Việt cổ, có nghĩa là kho, là nhà (ngày nay ta vẫn còn dùng từ ghép kho đụn). Phải chăng, lễ hội này phản ánh một thời kỳ xã hội còn ở mức sơ khai, khi cả cộng đồng đông đúc cùng ở chung trong một căn nhà rộng? Hay phản ánh một nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng, khi chưa đủ khả năng vật chất để xây dựng đình ở thời bán nguyên thủy?
Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, dọc theo quốc lộ 1A, hát giặm rải từ phía Bắc vào phía Nam, qua Quỳnh Lưu; Yên Thành, Diễn Châu, Nghi Lộc (Nghệ An), nhưng dần dần, hát giặm đậm đặc nhất ở Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà (Văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa Sở Văn hóa – Thông tin Hà Tĩnh 1995). Theo học giả Nguyễn Đổng Chi trong cuốn Hát giặm Nghệ Tĩnh (NXB Khoa học 1963) thì: “Hát giặm Nghệ Tĩnh giọng hát thô sơ, đều đều, nhạc điệu đơn giản, tưởng như còn giữ được ít nhiều hình thức nguyên thủy và tính chất hùng dũng vốn có xưa kia của nó. Phải chăng, hát giặm Nghệ Tĩnh có xuất xứ từ thời kỳ Việt Thường thị và chính vùng kinh đô của nó còn bảo lưu, bảo tồn được nhiều nhất (Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà đều ở quanh vùng Ngàn Hống)?
Nhân vật Kinh Dương Vương và Việt Thường thị
Tác giả Việt Nam: thần thoại và truyền thuyết (Bùi Văn Nguyên, NXB Khoa học xã hội và NXB Mũi Cà Mau -1993) dẫn theo Ngọc phả và truyền thuyết, cho biết: Kinh Dương Vương là cháu 4 đời của Viêm Đế – Thần Nông. Kinh Dương Vương vì không thích làm vua ở đất Kinh, Tương (vùng hồ Động Đình, Trung Quốc) nên mới du ngoạn phương Nam để chọn đất đóng đô ở Ngàn Hống và đặt quốc hiệu là Việt Thường. Thế nhưng, chúng ta biết, khi đoàn sứ giả của Việt Thường thị sang dâng rùa thần cho vua Nghiêu, để hiểu nhau phải qua nhiều lần thông dịch. Hơn 1.200 năm sau, đoàn sứ giả Việt Thường sang dâng chim trĩ trắng cho Chu Thành Vương cũng phải qua nhiêu lần thông dịch mới hiểu được nhau. Chi tiết này chứng tỏ giữa nền văn minh Việt Thường và nền văn minh Trung Hoa hoàn toàn xa lạ, phải có những người của bộ tộc trung gian làm công tác phiên dịch mới hiểu được nhau. Không lẽ Kinh Dương Vương, cháu 4 đời của Viêm Đế Thần Nông mà lại khác xa tổ tiên và những người anh em cùng huyết thống với mình như thế?
Hai là, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nở ra một trăm người con, thủy tổ của dân tộc Việt. Đây là truyền thuyết đích thực của dân tộc ta, phản ánh “khát vọng của dân tộc trong buổi ban đầu muốn có hình thức sinh sôi nảy nở một cách thần kỳ, để có đủ nhân lực, nhằm đấu tranh với thiên nhiên, chống lại thú dữ, bảo tồn nòi giống. Một khát vọng buổi đầu như thế là hết sức thiêng liêng. Nếu chúng ta xét trong phả hệ này, Viêm Đế sinh ra Đế Khôi; Đế Khôi sinh ra Đế Thừa; Đế Thừa sinh ra Đế Minh; Đế Minh sinh ra Kinh Dương Vương đều là những sự sinh nở hết sức bình thường. Đến đời Lạc Long Quân, tự nhiên lại sinh ra một bọc trứng thì vô hình chung, đấy là một sự bất thường khó hiểu, chứ đâu còn mang ý nghĩa thiêng liêng nữa!
Chúng tôi cho rằng nếu Kinh Dương Vương là thủ lĩnh Việt Thường thị thì:
-   Một là, ông không thể là dòng dõi Viêm Đế Thần Nông như chúng tôi đã phân tích.
-   Hai là, ông không thể là thủy tổ của Lạc Long Quân và các vua Hùng như trong Ngọc phả và truyền thuyết đã xác nhận. Chúng tôi cho rằng: truyền thuyết đó là ngụy tạo và việc gắn thân thế của Kinh Dương Vương với Viêm Đế Thần Nông là một sản phẩm “sáng tác” vụng về, chắp vá, hết sức ấu trĩ của các nhà nho đời sau mà thôi.
Đôi điều kết luận
Trước thời đại Hùng Vương hàng ngàn năm, ở vùng Khu IV cũ (bao gồm Thanh – Nghệ – Tĩnh – Bình – Trị - Thiên ngày nay) mà trung tâm là vùng núi Hồng sông Lam, đã từng tồn tại một bộ tộc Việt Thường của người Việt cổ, có trình độ văn minh cao, đã có chữ viết và làm được “quy lịch”. Trên cơ sở của nền văn minh đó, về sau này trên đất nước ta dần dần xuất hiện ba quốc gia: đó là quốc gia Văn Lang của các vua Hùng ở phía Bắc, quốc gia Lâm ấp (Chăm-pa) ở miền Trung và quốc gia Phù Nam ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ trước đến nay, nhắc đến nền văn minh Việt cổ, chúng ta chỉ chú trọng đến thời kỳ Hùng Vương mà bỏ quên nền văn minh Chăm pa, nền văn minh Phù Nam và trước đó hàng ngàn năm là nền văn minh Việt Thường thị. Phải chăng, chúng ta đã thiên lệch và phiến diện lắm sao?
* Nguồn: NHÌN LẠI LỊCH SỬ, nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2003, Tác giả: KS. PHAN DUY KHA – TS. LÃ DUY LAN – TS. ĐINH CÔNG VĨ.

COMMENTS


Khi bàn luận về lịch sử "Truyền thuyết VN" thì như hai võ sư trao đổi "võ mòm" vậy , tất cả đều hư nhiều hơn thực , ấy là chưa kể một nước nhỏ như Việt Nam qua nhiều thời kỳ Hán thuộc Pháp thuộc ngàn năm trăm năm , thì tính chính xác nó còn lại bao nhiêu sau khi bị nhóm sử gia kẻ chiếm đóng "tái tạo" và "nhồi nhét" vào trong "Sử sách" ? tôi học sử TQ nhiều hơn sử VN , và thường hay đối chiếu qua từng thời kỳ , còn nhiều thắc mắc vì giới hạn của mình , nêu ra xin để trao dồi .
  • Người viết sử Việt luôn tìm cách để nêu ra chứng tích là mình không từ đâu đến , là Thổ Dân (Indigenous peoples) miền lưu vực sông Hồng , nhưng có lúc thì cho là cư dân Động Đình Hồ cách xa 1500km bên Tàu , có lúc bao gồm luôn Phù Nam cũng 1500km về phía nam , có bao nhiêu dân tộc cổ có một phạm vi hoạt động rộng như thế ? mà một dân tộc như vậy lại không có văn tự ? Trước ngàn năm đô hộ giặc Tàu mình ăn nói viết lách như thế nào ?
  • Xung quanh VN dân tộc Lào , Khmer , Thái , Miến Điện , Sri Lanka , Bangladesh , Ấn Độ đều có văn tự riêng biệt , có người cho là bị người Tàu xóa sạch , họ có khả năng clean-up một văn tự của một dân tộc khác trên một phạm vi rộng trên triệu cây số vuông ? Có người thì nói là ta có "Chữ Quốc Ngữ" thì tôi càng buồn thêm vì nó mới được phổ biến sâu rộng và định chế vào khoảng đầu Thế Kỷ 19 bởi kẻ xâm lược , Quốc Ngữ là văn tư chưa hoàn chỉnh , còn nhiều khuyết điểm mà học giả Việt lại không chịu ra sức kiện toàn , Anh Song thường ghi Y thay bằng I như Lí Thái Tổ , công lí v.v.. , tôi có thể ghi Ngệ An , Hi Lạp , Í Đại Lợi không ? ai có tư cách trả lời ?
  • Còn chữ Nôm thì cá nhân tôi cho là con nuôi của Hán tự , không phải Cổ văn tự Việt , muốn học Nôm thì phải giỏi Hán , Nôm gần giống như Pinyin của TQ hiên nay , dùng ghép 2 chữ Hán thành 1 chữ Nôm để phát ra khẩu ngữ không Hán trong tiếng Việt , như "Chữ 𡦂 " ghép 2 "Tự " , còn "Nôm " ghép 2 chữ "Khẩu " và "Nam " , nó phức tạp hóa nên không sống lâu bị đào thải trên đường dài lịch sử .
  • Những tên xuất hiện trong sử VN như Nữ Oa , Thần Nông , Phục Hy , Viêm Đế , Nghiêu Thuấn v.vv.. đều xuất hiện trong sử sách TQ , rồi có học giả VN đi đến kết luân cho là dân tộc Hoa Hạ 華夏 là nhánh của Lạc Việt 駱越 , phương pháp thủy canh lúa của người Tàu  được người Việt truyền dạy , tiến lên bước nhảy vọt giáo sư Kim Định "phát hiện" Nho Giáo của Khổng Tử thời Xuân Thu là học Nho Nguyên Thủy của dân tộc Việt ở phía nam Động Đình Hồ , tôi bị sốc thật sự khi ngồi đọc những trang mạng này , mình thấy bi quan phiền não Sad smile, còn xung quanh mình mấy ban VN thì phấn khởi vô cùng Open-mouth smile, bởi nguyên cớ này tôi ít dám đọc "truyền thuyết" mà thường hay để tâm "Lịch sử biên niên kỷ" và thời sự . 

Vài hàng gởi QUÁN GIÓ

Ba Tran
29.09.2012


Tôi thấy bài viết trên nhìn lại LS với đầu óc có phê phán (dĩ nhiên phê phán ở mức đô nào còn tuỳ thuộc nhiều yếu tố khác như trình độ, kinh nghiệm, vốn sống, óc cởi mở...) nên giới thiệu bạn bè đọc cho vui. Ví dụ, tác giả đặt vấn đề về chuyện Kinh Dương là cháu 4 đời của Viêm Đế Thần Nông nhưng khi sứ giả Việt Thường qua dâng chim trĩ cho Chu Thành Vương thì phải qua nhiều lần thông dịch mới hiểu... Có đọc nhiều nguồn cổ sử mới thấy cần phải đọc với óc phê phán thường xuyên, không những sự kiện LS bị sử gia của nước đi chinh phục bóp méo mà ngay cả sử gia của chính nước bị chinh phục cũng vo tròn bóp méo cho phù hợp với quan điểm giới cai trị lúc đó. Ngay cả sử hiện đại cũng như thế, dù tình trạng ít tồi tệ hơn vì ngày nay người ta có điều kiện truy cập thông tin tốt hơn thời xưa rất nhiều. Ví dụ vụ đánh nhau ở HS năm 1974 không xa lắm, nhưng VN và TQ mỗi bên nói một phách, ngay cả trong các nhóm của HQ VN cũng có nhiều accounts khác nhau!

Tôi không quá 'lạc quan' như những người theo thuyết của GS Lương Kim Định coi VN là nhứt, trừ khi có những bằng chứng thật thuyết phục nhưng cũng không quá tư ti coi VN là zero vì ít ra cho tới bây giờ VN vẫn không bị người anh lớn đồng hoá mất đi như nhiều dân tộc khác, còn ngôn ngữ VN tuy có vay mượn rất nhiều từ ngữ Hán nhưng cách ăn nói về cơ bản vẫn phân biệt rõ rệt với người Tàu dù ở ngay sát bên nách (VN chính trước phụ sau, còn người Tàu thì ngược lại, ví dụ người Tàu nói 'trắng ngựa [白馬 bạch mã], người Việt nói "ngựa trắng"...)

Có một ý nhỏ về chính tả mà anh Ba có đề cập. Do chữ" quốc ngữ"  ban đầu được các giáo sĩ nước ngoài chế ra nên họ máy móc áp dụng quy tắc của chính tả ngôn ngữ họ khiến cách viết chữ Việt có nhiều chỗ thiếu hợp lí (kiểu c, k, q, g, gh..). Trước nay đã có nhiều cố gắng để làm cho nó hợp lí hơn nhưng chưa được số đông hưởng ứng. Còn cách tôi viết hiện này là do ảnh hưởng thời đi dạy học lúc còn trong nước, lúc đó Bộ GD có ra quy định về chính tả cho các trường học phải tuân theo, trong đó có chính tả về chữ i/y (nói đơn giảnlà  chỗ nào thay i thành y mà không ảnh hưởng thì có thể thay được, cũng có 1 ít ngoại lệ như trường hợp chữ y đứng 1 mình hay đứng đầu 1 từ). Tôi thấy quy định này có vẻ hợp lí và đơn giản và cũng tuân thủ lệnh của Bộ để dạy học trò nên thành thói quen. Còn trên bình diện xã hội hiện nay, mỗi khi có trường hợp khó khăn về chính tả người ta cũng thường tham khảo "Từ điển chính tả" của nhóm Hoàng Phê để viết (nhóm này chính là nhóm tham mưu cho bộ GD ra quy định tôi vừa nói nên từ điện của họ cũng tuân theo quy tắc này, tuy nhiên vẫn chấp nhận cách viết cũ như là một cách viết alternative). Thành ra "Tự điển chính tả" Hoàng Phê gần như được ngầm xem như là một trọng tài về mặt chính tả tiếng Việt chứ chưa có cơ quan nào có quyền quyết định cả.

Vài ý trao đổi với anh Ba và các bạn.

SOMG PHAN


Xin chào mọi người,
Quán Gió chưa " chính thức mở cửa " để đón khách , vậy mà đã xôm tụ từ 2 tuần nay.
UN rất vui và cảm ơn mọi người đã đưa ra những đề mục hấp dẫn với bao nhiêu là 
tài liệu trích dẫn , dịch thuật và những ý kiến hoặc bổ khuyết hoặc đặt lại vấn đề v.v.
Món " Sử" và " ngôn ngữ" là 2 món dọn gần 2 tuần rồi ,  vẫn thầy rất ngon!
Riêng về chuyện " Sử Việt" , UN tạm thời chưa tra cứu được , nên có vài điều thắc mắc:
(1) Bài viết của KS Phan Duy Kha (P D K) có đề cập đến nền văn minh " Việt Thường Thị" 
với văn tự và Quy Lịch . Xin hỏi bà con quán Gió , có ai biết rỏ về chuyện này không?
Tác giả PDK chỉ nói lướt qua , không dẫn chứng và cũng không giải thích một lời nào về 2
 sáng tạo văn tự & Quy lịch. Có vẻ như chỉ liệt kê  khơi khơi , còn kém ông Kim Định xa,
khi ông này dành Nho Học của Khổng Khâu cho dân tộc Việt ( ô.Kim Định gọi là Việt Nho)
Câu hỏi đơn giản : Một bộ tộc ( trước thời Hùng Vương hàng ngàn năm) , nhân số vật lực thế nào 
mà có thể làm ra văn tự & Lịch? Nếu gọi là Việt Thường THỊ, chẳng phải chỉ là một bộ tộc mà 
nhân số còn rất khiêm nhường?
(2)Nếu đem các "Truyền thuyết" và huyền sử thần thoại để làm nền mà nói về gốc tích một dân tộc,
UN e là sẽ bị dắt đi vào vùng sương mù của thời hồng hoang ảo mị . Chúng ta đọc sử , chứ có phải được
" đấm lưng " đâu ? 
Khi, niềm tự hào dân tộc được vuốt ve , thì ý thức logic khoa học sẽ biến mất.!
.......
Chia sẻ về " chữ quốc ngữ" với anh Ba : Theo UN, Việt ngữ cũng đã khá hoàn hảo . Chuyện chính tả so với ngữ pháp 
thì không có sai lầm nào lớn. Chỉ là Việt Nam không có sự " thống nhất" khi viết/ nói Việt ngữ.
Thiếu tính " thống nhất" và tính nhất quán . VN không có quán nào bán 2 món đó, đành chịu!
Quán Gió mình có bán không , bà con ?
Thân 
UN.





TÌNH KHÚC MÙA ĐÔNG


TÌNH KHÚC MÙA ĐÔNG Red roseRed heart



Muà đông đã đến trên thành phố
Chiều lặng tiễn mùa thu đi rất vội
Gió rét từng cơn nghe tê tái
Chớm sang đông mà sao thấy rất dài

Lá vàng thôi không còn rơi nữa
Bỏ lại hàng cây ngơ ngác bên đường
Đôi chim chiều vẫn mải miết bay
Sợ mất nhau trong giá lạnh mùa đông

Lững lờ mây xám chầm chậm trôi
Luyến tiếc ngày qua chút nắng hồng
Em Hamburg đang trong mùa hạ
Sửi lòng anh chút ấm bên bờ đại dương

Ta tìm gì trong mùa đông giá lạnh
Bàn tay tìm hơi ấm bàn tay
Môi tìm môi tình yêu chợt tới
Winter Sonata bản tình ca mùa đông bất tận
Chợt vang lên cho một chuyện tình
Mai em về có nhớ Sydney
Nhớ đêm đông một ngày năm ấy
Ngày mai rồi mùa xuân cũng tới
Mặt trời lên vẫn tiếc nuối một mùa đông!


Sydney những ngày lập đông NoteNoteNote
3-6- 12
ntrinh

TẨY CHAY HÀNG TRUNG CỘNG


TRUYỆN NGẮN



                                                                    T
TẨY CHAY HÀNG TRUNG CỘNG
  



 Mấy hổm rày ông Nhơn không ngủ được. Không phải vì khí hậu Sydney quá lạnh, cũng không phải vì đoàn lực sĩ  bơi lội Úc ( quê hương thứ hai của ông)
không làm nên cơm cháo gì trên đường đua xanh. Bộ môn olympic mà ông cực kỳ ưa thích. Đầu óc ông đang bận làm việc hết công suất để tìm câu trả
lời cho một vấn đề mà theo ông rất là hệ trọng.

...Ông An một người bạn có chí lớn, luôn suy tư vì vận mạng đất nước Việt Nam trước hiểm họa xâm lăng của Trung cộng. Ông An vừa "meo" cho
bằng hữu trong đó có ông với lời kêu gọi " tẩy chay hàng trung cộng". Ông Nhơn nhận được "meo" lòng như mở cờ trong bụng, phen này nhất định ông
phải chơi mấy thằng tàu " bá quyền" một vố mới hà dạ'

Uống hết một cốc trà, khà một cái khoan khoái...ông Nhơn thầm cảm ơn  cao kiến  của ông An. CHỐNG bọn tàu dễ ẹt như vây mà lâu nay sao ông không
nghĩ ra. Không lẽ mới gần hai chục năm sọt thơ mà đầu óc ông kém thế sao! Lo việc nước này xong nhất định ông phài làm một chuyến du lịch như ông
Ba một người bạn khác của ông mới được.

Trước khi tẩy chay thiệt ông Nhơn tập tẩy chay nháp. Tức là chỉ tẩy chay  tưởng tượng thôi. Ông Nhơn chấp tay sau đít, đi một vòng quanh nhà coi thử
vứt cái gì đây. Càng tìm kiếm ông càng toát mồ hôi hột. Té ra lâu nay nhà ông toàn chơi đồ tàu không à. Nhìn đâu ông cũng thây MADE IN CHINA. 
Trong bếp nhà ông chỉ có bao gạo  và mấy chai  tương là của Thái lan, có điều mây thứ này củng là người Tau bên Thái làm. Tầy chay cái vi tính APPLE cũng không
được, tẩy chay nó lấy gì ông chat với bạn bè của ông để bàn thế sự đây... may mà ông còn có cái xe không phải của Tàu để đi cày.
Ông NHƠN tức mình là trong lời kêu gọi không có nói rõ là tẩy chay hàng Trung cộng thuần túy hay là tẩy chay hàng tư bản làm bên tàu. Tầy chay cái sau
thì mấy thằng tư bản sập tiệm nó đuồi việc ông mất.

Mới tẩy chay nháp mà ông đã thấy mình giống cộng sản thứ thiệt rồi, có nghĩa là ông không còn cái gì để sở hữu, có nghĩa là ông trở thành " vô sản".
Không được cái này thì  nhất định không được. Đột nhiên ông giận mấy thằng tư bản vô cùng, cái gì cũng mang qua tàu sản xuất để giờ này ông lâm vào
thế kẹt.

Trời đã quá khuya, vầng trăng thượng tuần treo lơ lửng chếch trên hàng cây thông sau nhà. Bình thường ông Nhơn sẽ làm thơ trước một cảnh đẹp như thế, nhưng
mấy hôm nay ông ưu tư vì việc chống tàu. Chỉ mấy đêm không ngủ mà ông xuống sắc thấy rõ. Bà Nhơn lo lắng chạy ra Bankstown hốt cho ông một thang thuốc
Bắc Thập Toàn Đại Bổ. Ông uống vội mà quên rằng đó là thuốc tàu, nhưng mà có biết ông cũng phải uống vì ngày mai ông phải đi cày. Bà Nhơn mà biết ông mất
ngủ vì một chuyện tào lao như thế , chắc bả sẽ càm ràm cả tuần cho coi.

Ngày mai ông sẻ bàn lại với mấy anh em trong hội . Thay vì tẩy chay hàng trung cộng 31 ngày, ông sẽ đề  nghị tẩy chay 310 phút thôi. Số là trong lúc tắm ông vừa phát hiện ra rằng đó là lúc ông " thật sự" tẩy chay hàng trung cộng. Lúc đó từ trên xuống dưới ông không có gì!!! ( hú vía may mà nhà ông chỉ chơi xà bông Úc thôi) Một ngày trung bình một người tắm 10 phút, thì 31 ngày là 310 phút. Yêu cầu đó chắc các " chiến hữu" của ông làm được. Ông hài lòng với giài pháp trên và đi ngủ. Vừa chợp mắt con chó nhà hàng xóm bổng sủa vang liên hồi, tru tréo như ai bỏ đói nó. Nếu như mọi lần
ông đã chửi f..k rồi. Nhưng hôm nay ông thông cảm vì ông biết nó đang tẩy chay đồ ăn chó làm tại Trung Quốc... không hiều sao ông cứ nghĩ là vậy.


15-08-12

Trịnh Thứ Lang
VIẾT THEO CẢM HỨNG TỪ BẢN TIN CỦA ANDY

CA SĨ KHÁNH LY & BÀI THƠ BẠC TẦN HOÀI

Chào bằng hữu quán gió


Việc ca sĩ KL chuẩn bị về VN   trình diễn thực ra đã được đôi bên thỏa thuận ngầm từ lâu.
( KL đã từng rào đoán dư luận cách đây vài năm là có nhà tổ chức sẵn sàng trả 2 triệu đô cho việc mời cô về"
Song không biết vì lý do gì mà chưa làm sớm được. Tuy nhiên tất cả chúng ta đều hiểu đó
là lý do chính trị. Như chúng ta đã biết trong số các ca sĩ hải ngoại KL  là ca sĩ có tiếng chống cộng nhất.
KL từng viết hồi ký tố csvn tàn ác, ép ca sĩ Bằng Kiều muốn gia nhập hàng ngũ ca sĩ hải ngoại thì phải cầm cờ quốc gia...( lời gđ Bằng Kiều )Đã từng hát những bài hát làm cho csvn ứa máu. KL đồng thời cũng là người tiền hậu bất nhất. Nhiều lần KL tuyên bố đây là lần cuối cùng kl trình diễn, khán giả mủi lòng ủng hộ cô rất nhiều. Từ đó đến nay không biết bao nhiêu là lần cuối cùng, bây giờ người ta không để ý nữa. Khán giả bên Úc có kinh nghiệm "đau thương " này nhất.Giọng ca liêu trai chuyên trị nhạc Trịnh Công Sơn thì ai cũng biết. Đó là đôi dòng vắn tắt cho profile của KL.

Người viết còn nhớ một câu chuyện đại ý như sau. Có một nhà hiền triết vaò quán ăn bảo làm cho ông một món ngon nhất. Người chủ quán hỏi ông thịt chỗ nào ngon nhất, nhà hiền triết trả lời cái lưỡi.
Mấy hôm sau ông lại bảo chủ quán làm cho món nào dở nhất. Chủ quán hỏi ông thịt chổ nào dở nhất, nhà hiền triết lại trả lời cái lưỡi. Chủ quán trố mắt nhìn ông ngạc nhiên, lúc đó ông mới ôn tồn giải thích không có bộ phận nào trên cơ thể mà có thể làm cho con người ta sung sướng tột cùng và cũng đau khổ tột cùng như cái lưỡi. Đúng vậy cũng cái lưỡi đó ngày xưa thì vì cs đàn áp chúng em phải tẩu để được hát ở xứ tự do. Cũng cái lưỡi đó bây giờ chúng em phải về vì khán giả bên nhà chờ đợi, nhớ chúng em. Cái lưởi chỉ cần xoay chiều là mọi thứ đều khác hết.


 Trường hợp KL cái lưỡi đã bị cái DANH & LỢI  vặn tréo ( đồng ý với anh BA và  UYÊN NGUYÊN ).
Nhân vụ này làm người viết liên tưởng đến một bài thơ nổi tiếng của thi sĩ ĐỖ MỤC bài BẠC TẦN HOÀI. ĐỖ MỤC là một nhả thơ nổi tiếng sống ở thời vãn Đường. Trong một đêm ghé bến TẦN HOÀI gần một tửu đình bên sông. Trong làn sương mù khói tỏa trên mặt nước. Bãi cát lồng lộng trong ánh trăng. Trong quán thực khách đang say sưa ăn nhậu bên cạnh các ả kỷ nữ đờn xướng cho khách mua vui.Tức cảnh sinh tinh và cũng cám cành
cho nhà Đường đến thời mạt vận ông đã sáng tác bài thơ trên. Trong đó ông có ý trách các nàng kỹ nữ mải mê ca hát mà không biết đến mối hận mất nước.Ca khúc Hậu Đình Hoa
trong bài thơ được coi như là bài ca đã làm cho nhà Trần bên tàu ( Trần Hậu Chủ )mất nước.

Khánh Ly có phần nào giống các ca nữ trong bài thơ chứ không hoàn toàn giống hẳn.

Thương nữ bất tri vong quốc hận 
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa
Vì các ca nữ thời đó cuộc sống của họ không có nhiều lựa chọn. Một số là "ghẹ" chuyên nghiệp cao cấp, Một số từ nhỏ đã bị bắt ép vào đời kỹ nữ cho các quan lại ăn chơi.Thi sĩ Đổ Mục có phần nào trách oan cho họ chăng?
Bên trong câu ca tiếng đàn đó làm sao ông biết  chắc được họ không có nỗi đau mất nước.
Khánh Ly thì khác, cô có quá nhiều lựa chọn. KL bây giờ đã về chiều, nhan sắc tàn phai. Giọng hát đã yếu. Một bài báo trong nước tờ Sài Gòn Tiếp Thị mới đây đã đăng một  bài nghi ngờ về chất giọng của cô dưới hàng tựa " KHÁNH LY, TIẾNG HÁT XƯA CÓ THEO VỀ". Vậy tại sao cô lại chọn về . Nên nhớ về là phải răm rắp theo "chỉ đạo" của cán bộ văn hóa. Đang ở Mẽo không ai bắt buộc mình được từ khi là tự nguyện. Ca sĩ KL cũng là người của công chúng ( public figure) nên cô đang phải đối đầu với dư luận.

Việc trình diễn của ca sĩ KL chưa biết chắc chắn khi nào. Nếu điều đó xảy ra mong đồng bào tị nạn cũng đừng buồn bực.
Cứ khoan khoái châm bình trà, thưởng thức bài thơ Bạc Tần Hoài và nhớ rằng ca sĩ bây giờ còn thua xa kỹ nữ ngày xưa.
Có ưu tư chăng thì đó là "đường hồi hương sao khổ đau thế" mượn lời anh Ba. Và sao lâu thế?

blogger Trịnh Thứ Lang
30-09-2012

Comments

Ngày xưa Vua Càn Long nhà Thanh đi xuống Giang Nam đến Kim Sơn Tự trên một đồi núi nhỏ ở Hàn Châu , đứng trên đĩnh cao nhìn xuống sông Dương Tử thấy tàu ghe qua lại tấp nập , quay sang hỏi vị cao tăng tháp tùng "Mỗi ngày có bao nhiêu tàu bè qua lại khúc sông nay ?" , vị cao tăng mĩm cưới đáp "Bệ hạ , tôi không biết bao nhiêu mà biết qua lại khúc sông này chỉ có hai loại tàu bè một là DANH và một là LỢI thôi ". 
Con người ta khi quay lưng lại những gì mình từng theo đuổi , từng hứa hẹn đều có lý do mà họ cho là đầy đủ ý nghĩa , nhưng buồn thay là chỉ có một mà thôi - DANH LỢI .


Ba Tran
28.09.2012


Bạc Tần Hoài

Nguyên tác: Đỗ Mục




泊秦淮

煙籠寒水月籠沙
夜泊秦淮近酒家
商女不知亡國恨
隔江猶唱後庭花

Bạc Tần Hoài

Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa

Chú thích:

Tần Hoài: tên con sông từ tỉnh Giang Tô chảy lên phía Bắc vào sông Trường Giang.
Hậu Đình Hoa: tên khúc hát làm trong buổi tiệc của vua Trần Hậu Chủ và Trương Quý Phi thời Nam Bắc triều

-- Bản Dịch của Trần Trọng San --

Thuyền Đậu Sông Tần Hoài

Khói trùm nước lạnh, trăng lồng cát;
Thuyền đậu Tần Hoài, cạnh tửu gia.
Cô gái không hay buồn nước mất,
Bên sông còn hát Hậu Đình Hoa 



A MOORING ON THE QIN HUAI RIVER 

Mist veils the cold stream, and moonlight the sand, 
As I moor in the shadow of a river-tavern, 
Where girls, with no thought of a perished kingdom, 
Gaily echo A Song of Courtyard Flowers.