Sunday, 30 September 2012

ĐÂU LÀ QUỐC ĐÔ ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT ?


Có bài viết này đặt lại vài vấn đề trong LS VN thời kì mở đầu cũng đáng chú ý:

ĐÂU LÀ QUỐC ĐÔ ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT ? 

KS. PHAN DUY KHA
Núi Hồng Lĩnh (tức Ngàn Hống) là một trong những danh sơn của đất nước được chọn khắc vào “cửu đỉnh” (9 chiếc đỉnh bằng đồng đặt ở sân Thế Miếu, kinh đô Huế). Núi nằm giữa ba huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc của tỉnh Hà Tĩnh. Tương truyền núi có 99 đỉnh, đỉnh cao nhất 676m. Theo Ngọc phả Hùng Vương thì chính ở phía Tây – Nam dãy núi này, ngày xưa là đô thành của Kinh Dương Vương.
Vị trí đó đã được Ngọc phả xác định tương đối cụ thể: ở chân núi Thiên Tượng thuộc làng Bình Lãng (tên cổ là Kẻ Vọt) và ở tả hữu Thiên Lộc, nội ngoại Thiên Lộc (thuộc hai xã Thiên Lộc và Phúc Lộc, huyện Can Lộc ngày nay). Đây là một vùng đất cổ. Theo một cuốn địa phương chí thì ở vùng Can Lộc này 2/3 số làng cổ có tên nôm là Kẻ, ví dụ: Kẻ Vọt (Bình Lãng), Kẻ Treo (Đậu Liêu), Kẻ Cài (Thanh Lộc), Kẻ Lù (Hồng Lộc), Kẻ Chòi (Tân Lộc)… Những làng này đều nằm ở phía Tây – Nam Ngàn Hống, trùm lên vị trí kinh đô xưa.
… Không phải ngẫu nhiên mà những người lập Ngọc phả lại ghi nhận nơi đây là quốc đô đầu tiên của ngươi Việt. Chúng ta biết rằng, ngay kinh đô Văn Lang của các vua Hùng, ngày nay chúng ta vẫn chưa xác định được vị trí cụ thể, thì việc một kinh đô có trước thời kỳ Hùng Vương hàng ngàn năm, lại được xác định một cách cụ thể như thế chứng tỏ rằng nó đã từng tồn tại lâu dài và để lại những dấu ấn đặc biệt.
Dấu tích vật chất và dấu ấn tinh thần của kinh đô Ngàn Hống
Dấu tích vật chất duy nhất còn lại là đài Trang Vương (còn gọi là Sở Trang Chỉ) mà nhiều người lầm tưởng là nên nhà của công chúa Diệu Thiện, do Sở Trang Vương xây dựng cho con gái (Xin được nói thêm: trong thời đại phong kiến, một số nhà nho có tư tưởng sùng ngoại thường hay gắn những di tích trên đất nước ta cho các nhân vật Trung Hoa. Ví dụ: tên núi Yên Tử, thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh, họ cho rằng do đạo sĩ Yên Kỳ Sinh người Trung Hoa, đời Tần sang tu luyện ở núi này mà có tên như thế (!). Vậy thử hỏi, núi Yên Phụ, cũng ở Đông Triều, cạnh Yên Tử, là do bố của Yên Kỳ Sinh đến tu luyện mà có tên như thế hay sao? Chính những sự gán ghép tùy tiện như thế gây rắc rối không ít cho những người nghiên cứu. Khi sử dụng loại truyền thuyết này, cần hết sức cảnh giác!).
Trở lại vấn đề của chúng ta. Đài Trang Vương nằm trên ngọn Hương Tích, có độ cao 500m, vị trí vào khoảng giữa của kinh đô Ngàn Hống. Sách. Đại Nam nhất thống chí ghi: “Núi Hương Tích, trên có thành đá, trong thành có nền ghép bằng đá, có 99 bậc gọi là đài Trang Vương…”. Nhà học giả Hoàng Xuân Hãn mô tả: “Đường lên chùa (tức chùa Hương Tích, nằm trên cùng một đỉnh núi với đài Trang Vương) gồ ghề và dốc. Nhiều chỗ phải bò mà vịn vào tảng mới qua chỗ hẻm. Lúc lên đến nơi thì một cảnh ngoạn mục bày ra trước mắt: một vạt sân rộng phẳng, tùng già bóng mát, tiếng gió thổi qua lá nhỏ, nghe như thổi sáo, gảy đàn” (La Sơn phu tử – NXB Văn học, theo bản in 1952). Như chúng tôi đã phân tích, đây không thể là công trình xây dựng của vua Sở Trang Vương như nhiều người lầm tưởng. Chúng tôi cho rằng đây có thể là đài quan sát thiên văn của bộ tộc Việt Thường. Chúng ta biết, bộ tộc Việt Thường đã làm được “quy lịch”. Mà muốn làm được lịch thì không thể không hiểu biết tường tận về bầu trời và khoa học quan sát thiên văn. Một đỉnh núi cao đến 500m, lại nằm giữa vùng đồng bằng là một vị trí quan sát thiên văn lý tưởng. Vì vậy, đài Trang Vương phải chăng là đài quan sát thiên văn của thời kỳ Việt Thường thị?
Dấu ấn tinh thần của kinh đô Ngàn Hống, theo chúng tôi, còn lại trong các truyền thuyết về lễ hội, trong đó có lễ hội đình Đụn mà chúng tôi đã đề cập tới (TGM 164). Lễ hội đình Đụn còn được truyền miệng trong một bài vè ở vùng này:
…Di truyền cổ tích
Dựng bốn cột làm đình .
36 gian rộng thênh
Khi lễ hội cáo thành
Làng cho hạ cột đình
Dân rước về Khe Hác…
(Vè đình Đụn)
Khe Hác là khe Nhà Trò. Bốn cột đình dựng lên, dù rộng bao nhiêu cũng chỉ là một gian, chứ sao được 36 gian (36 gian thì phải cần đến 74 cột!). Chúng tôi chưa giải thích được con số 36 này, nhưng con số 4 cột đình phải chăng tượng trưng cho 4 cột chống trời ở 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc trong quan niệm của người Việt cổ?
Một điều lý thú là ở cách vùng này trên chục cây số, tại xã Thạch Khê (Thạch Hà, Hà Tĩnh) cũng có truyền lại về lễ hội đình Đụn ở vùng này. Hàng năm, cứ đến rằm tháng 6, dân 4 giáp trong xã tổ chức tế lễ ở Đại Đình. Ở đó, người ta đắp một cái cồn cao và rộng, gọi là cồn Đình. Tại đây, 4 giáp dựng 4 cột gỗ lim ở 4 góc cồn Đình và cũng gọi là 4 cột đình Đụn. Tế lễ xong lại dỡ cột đình đem cất đi. Có lẽ trên đất nước ta, chưa ở đâu có cách tế lễ độc đáo như thế! Đụn là một từ Việt cổ, có nghĩa là kho, là nhà (ngày nay ta vẫn còn dùng từ ghép kho đụn). Phải chăng, lễ hội này phản ánh một thời kỳ xã hội còn ở mức sơ khai, khi cả cộng đồng đông đúc cùng ở chung trong một căn nhà rộng? Hay phản ánh một nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng, khi chưa đủ khả năng vật chất để xây dựng đình ở thời bán nguyên thủy?
Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, dọc theo quốc lộ 1A, hát giặm rải từ phía Bắc vào phía Nam, qua Quỳnh Lưu; Yên Thành, Diễn Châu, Nghi Lộc (Nghệ An), nhưng dần dần, hát giặm đậm đặc nhất ở Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà (Văn hóa làng và xây dựng làng văn hóa Sở Văn hóa – Thông tin Hà Tĩnh 1995). Theo học giả Nguyễn Đổng Chi trong cuốn Hát giặm Nghệ Tĩnh (NXB Khoa học 1963) thì: “Hát giặm Nghệ Tĩnh giọng hát thô sơ, đều đều, nhạc điệu đơn giản, tưởng như còn giữ được ít nhiều hình thức nguyên thủy và tính chất hùng dũng vốn có xưa kia của nó. Phải chăng, hát giặm Nghệ Tĩnh có xuất xứ từ thời kỳ Việt Thường thị và chính vùng kinh đô của nó còn bảo lưu, bảo tồn được nhiều nhất (Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà đều ở quanh vùng Ngàn Hống)?
Nhân vật Kinh Dương Vương và Việt Thường thị
Tác giả Việt Nam: thần thoại và truyền thuyết (Bùi Văn Nguyên, NXB Khoa học xã hội và NXB Mũi Cà Mau -1993) dẫn theo Ngọc phả và truyền thuyết, cho biết: Kinh Dương Vương là cháu 4 đời của Viêm Đế – Thần Nông. Kinh Dương Vương vì không thích làm vua ở đất Kinh, Tương (vùng hồ Động Đình, Trung Quốc) nên mới du ngoạn phương Nam để chọn đất đóng đô ở Ngàn Hống và đặt quốc hiệu là Việt Thường. Thế nhưng, chúng ta biết, khi đoàn sứ giả của Việt Thường thị sang dâng rùa thần cho vua Nghiêu, để hiểu nhau phải qua nhiều lần thông dịch. Hơn 1.200 năm sau, đoàn sứ giả Việt Thường sang dâng chim trĩ trắng cho Chu Thành Vương cũng phải qua nhiêu lần thông dịch mới hiểu được nhau. Chi tiết này chứng tỏ giữa nền văn minh Việt Thường và nền văn minh Trung Hoa hoàn toàn xa lạ, phải có những người của bộ tộc trung gian làm công tác phiên dịch mới hiểu được nhau. Không lẽ Kinh Dương Vương, cháu 4 đời của Viêm Đế Thần Nông mà lại khác xa tổ tiên và những người anh em cùng huyết thống với mình như thế?
Hai là, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nở ra một trăm người con, thủy tổ của dân tộc Việt. Đây là truyền thuyết đích thực của dân tộc ta, phản ánh “khát vọng của dân tộc trong buổi ban đầu muốn có hình thức sinh sôi nảy nở một cách thần kỳ, để có đủ nhân lực, nhằm đấu tranh với thiên nhiên, chống lại thú dữ, bảo tồn nòi giống. Một khát vọng buổi đầu như thế là hết sức thiêng liêng. Nếu chúng ta xét trong phả hệ này, Viêm Đế sinh ra Đế Khôi; Đế Khôi sinh ra Đế Thừa; Đế Thừa sinh ra Đế Minh; Đế Minh sinh ra Kinh Dương Vương đều là những sự sinh nở hết sức bình thường. Đến đời Lạc Long Quân, tự nhiên lại sinh ra một bọc trứng thì vô hình chung, đấy là một sự bất thường khó hiểu, chứ đâu còn mang ý nghĩa thiêng liêng nữa!
Chúng tôi cho rằng nếu Kinh Dương Vương là thủ lĩnh Việt Thường thị thì:
-   Một là, ông không thể là dòng dõi Viêm Đế Thần Nông như chúng tôi đã phân tích.
-   Hai là, ông không thể là thủy tổ của Lạc Long Quân và các vua Hùng như trong Ngọc phả và truyền thuyết đã xác nhận. Chúng tôi cho rằng: truyền thuyết đó là ngụy tạo và việc gắn thân thế của Kinh Dương Vương với Viêm Đế Thần Nông là một sản phẩm “sáng tác” vụng về, chắp vá, hết sức ấu trĩ của các nhà nho đời sau mà thôi.
Đôi điều kết luận
Trước thời đại Hùng Vương hàng ngàn năm, ở vùng Khu IV cũ (bao gồm Thanh – Nghệ – Tĩnh – Bình – Trị - Thiên ngày nay) mà trung tâm là vùng núi Hồng sông Lam, đã từng tồn tại một bộ tộc Việt Thường của người Việt cổ, có trình độ văn minh cao, đã có chữ viết và làm được “quy lịch”. Trên cơ sở của nền văn minh đó, về sau này trên đất nước ta dần dần xuất hiện ba quốc gia: đó là quốc gia Văn Lang của các vua Hùng ở phía Bắc, quốc gia Lâm ấp (Chăm-pa) ở miền Trung và quốc gia Phù Nam ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ trước đến nay, nhắc đến nền văn minh Việt cổ, chúng ta chỉ chú trọng đến thời kỳ Hùng Vương mà bỏ quên nền văn minh Chăm pa, nền văn minh Phù Nam và trước đó hàng ngàn năm là nền văn minh Việt Thường thị. Phải chăng, chúng ta đã thiên lệch và phiến diện lắm sao?
* Nguồn: NHÌN LẠI LỊCH SỬ, nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2003, Tác giả: KS. PHAN DUY KHA – TS. LÃ DUY LAN – TS. ĐINH CÔNG VĨ.

COMMENTS


Khi bàn luận về lịch sử "Truyền thuyết VN" thì như hai võ sư trao đổi "võ mòm" vậy , tất cả đều hư nhiều hơn thực , ấy là chưa kể một nước nhỏ như Việt Nam qua nhiều thời kỳ Hán thuộc Pháp thuộc ngàn năm trăm năm , thì tính chính xác nó còn lại bao nhiêu sau khi bị nhóm sử gia kẻ chiếm đóng "tái tạo" và "nhồi nhét" vào trong "Sử sách" ? tôi học sử TQ nhiều hơn sử VN , và thường hay đối chiếu qua từng thời kỳ , còn nhiều thắc mắc vì giới hạn của mình , nêu ra xin để trao dồi .
  • Người viết sử Việt luôn tìm cách để nêu ra chứng tích là mình không từ đâu đến , là Thổ Dân (Indigenous peoples) miền lưu vực sông Hồng , nhưng có lúc thì cho là cư dân Động Đình Hồ cách xa 1500km bên Tàu , có lúc bao gồm luôn Phù Nam cũng 1500km về phía nam , có bao nhiêu dân tộc cổ có một phạm vi hoạt động rộng như thế ? mà một dân tộc như vậy lại không có văn tự ? Trước ngàn năm đô hộ giặc Tàu mình ăn nói viết lách như thế nào ?
  • Xung quanh VN dân tộc Lào , Khmer , Thái , Miến Điện , Sri Lanka , Bangladesh , Ấn Độ đều có văn tự riêng biệt , có người cho là bị người Tàu xóa sạch , họ có khả năng clean-up một văn tự của một dân tộc khác trên một phạm vi rộng trên triệu cây số vuông ? Có người thì nói là ta có "Chữ Quốc Ngữ" thì tôi càng buồn thêm vì nó mới được phổ biến sâu rộng và định chế vào khoảng đầu Thế Kỷ 19 bởi kẻ xâm lược , Quốc Ngữ là văn tư chưa hoàn chỉnh , còn nhiều khuyết điểm mà học giả Việt lại không chịu ra sức kiện toàn , Anh Song thường ghi Y thay bằng I như Lí Thái Tổ , công lí v.v.. , tôi có thể ghi Ngệ An , Hi Lạp , Í Đại Lợi không ? ai có tư cách trả lời ?
  • Còn chữ Nôm thì cá nhân tôi cho là con nuôi của Hán tự , không phải Cổ văn tự Việt , muốn học Nôm thì phải giỏi Hán , Nôm gần giống như Pinyin của TQ hiên nay , dùng ghép 2 chữ Hán thành 1 chữ Nôm để phát ra khẩu ngữ không Hán trong tiếng Việt , như "Chữ 𡦂 " ghép 2 "Tự " , còn "Nôm " ghép 2 chữ "Khẩu " và "Nam " , nó phức tạp hóa nên không sống lâu bị đào thải trên đường dài lịch sử .
  • Những tên xuất hiện trong sử VN như Nữ Oa , Thần Nông , Phục Hy , Viêm Đế , Nghiêu Thuấn v.vv.. đều xuất hiện trong sử sách TQ , rồi có học giả VN đi đến kết luân cho là dân tộc Hoa Hạ 華夏 là nhánh của Lạc Việt 駱越 , phương pháp thủy canh lúa của người Tàu  được người Việt truyền dạy , tiến lên bước nhảy vọt giáo sư Kim Định "phát hiện" Nho Giáo của Khổng Tử thời Xuân Thu là học Nho Nguyên Thủy của dân tộc Việt ở phía nam Động Đình Hồ , tôi bị sốc thật sự khi ngồi đọc những trang mạng này , mình thấy bi quan phiền não Sad smile, còn xung quanh mình mấy ban VN thì phấn khởi vô cùng Open-mouth smile, bởi nguyên cớ này tôi ít dám đọc "truyền thuyết" mà thường hay để tâm "Lịch sử biên niên kỷ" và thời sự . 

Vài hàng gởi QUÁN GIÓ

Ba Tran
29.09.2012


Tôi thấy bài viết trên nhìn lại LS với đầu óc có phê phán (dĩ nhiên phê phán ở mức đô nào còn tuỳ thuộc nhiều yếu tố khác như trình độ, kinh nghiệm, vốn sống, óc cởi mở...) nên giới thiệu bạn bè đọc cho vui. Ví dụ, tác giả đặt vấn đề về chuyện Kinh Dương là cháu 4 đời của Viêm Đế Thần Nông nhưng khi sứ giả Việt Thường qua dâng chim trĩ cho Chu Thành Vương thì phải qua nhiều lần thông dịch mới hiểu... Có đọc nhiều nguồn cổ sử mới thấy cần phải đọc với óc phê phán thường xuyên, không những sự kiện LS bị sử gia của nước đi chinh phục bóp méo mà ngay cả sử gia của chính nước bị chinh phục cũng vo tròn bóp méo cho phù hợp với quan điểm giới cai trị lúc đó. Ngay cả sử hiện đại cũng như thế, dù tình trạng ít tồi tệ hơn vì ngày nay người ta có điều kiện truy cập thông tin tốt hơn thời xưa rất nhiều. Ví dụ vụ đánh nhau ở HS năm 1974 không xa lắm, nhưng VN và TQ mỗi bên nói một phách, ngay cả trong các nhóm của HQ VN cũng có nhiều accounts khác nhau!

Tôi không quá 'lạc quan' như những người theo thuyết của GS Lương Kim Định coi VN là nhứt, trừ khi có những bằng chứng thật thuyết phục nhưng cũng không quá tư ti coi VN là zero vì ít ra cho tới bây giờ VN vẫn không bị người anh lớn đồng hoá mất đi như nhiều dân tộc khác, còn ngôn ngữ VN tuy có vay mượn rất nhiều từ ngữ Hán nhưng cách ăn nói về cơ bản vẫn phân biệt rõ rệt với người Tàu dù ở ngay sát bên nách (VN chính trước phụ sau, còn người Tàu thì ngược lại, ví dụ người Tàu nói 'trắng ngựa [白馬 bạch mã], người Việt nói "ngựa trắng"...)

Có một ý nhỏ về chính tả mà anh Ba có đề cập. Do chữ" quốc ngữ"  ban đầu được các giáo sĩ nước ngoài chế ra nên họ máy móc áp dụng quy tắc của chính tả ngôn ngữ họ khiến cách viết chữ Việt có nhiều chỗ thiếu hợp lí (kiểu c, k, q, g, gh..). Trước nay đã có nhiều cố gắng để làm cho nó hợp lí hơn nhưng chưa được số đông hưởng ứng. Còn cách tôi viết hiện này là do ảnh hưởng thời đi dạy học lúc còn trong nước, lúc đó Bộ GD có ra quy định về chính tả cho các trường học phải tuân theo, trong đó có chính tả về chữ i/y (nói đơn giảnlà  chỗ nào thay i thành y mà không ảnh hưởng thì có thể thay được, cũng có 1 ít ngoại lệ như trường hợp chữ y đứng 1 mình hay đứng đầu 1 từ). Tôi thấy quy định này có vẻ hợp lí và đơn giản và cũng tuân thủ lệnh của Bộ để dạy học trò nên thành thói quen. Còn trên bình diện xã hội hiện nay, mỗi khi có trường hợp khó khăn về chính tả người ta cũng thường tham khảo "Từ điển chính tả" của nhóm Hoàng Phê để viết (nhóm này chính là nhóm tham mưu cho bộ GD ra quy định tôi vừa nói nên từ điện của họ cũng tuân theo quy tắc này, tuy nhiên vẫn chấp nhận cách viết cũ như là một cách viết alternative). Thành ra "Tự điển chính tả" Hoàng Phê gần như được ngầm xem như là một trọng tài về mặt chính tả tiếng Việt chứ chưa có cơ quan nào có quyền quyết định cả.

Vài ý trao đổi với anh Ba và các bạn.

SOMG PHAN


Xin chào mọi người,
Quán Gió chưa " chính thức mở cửa " để đón khách , vậy mà đã xôm tụ từ 2 tuần nay.
UN rất vui và cảm ơn mọi người đã đưa ra những đề mục hấp dẫn với bao nhiêu là 
tài liệu trích dẫn , dịch thuật và những ý kiến hoặc bổ khuyết hoặc đặt lại vấn đề v.v.
Món " Sử" và " ngôn ngữ" là 2 món dọn gần 2 tuần rồi ,  vẫn thầy rất ngon!
Riêng về chuyện " Sử Việt" , UN tạm thời chưa tra cứu được , nên có vài điều thắc mắc:
(1) Bài viết của KS Phan Duy Kha (P D K) có đề cập đến nền văn minh " Việt Thường Thị" 
với văn tự và Quy Lịch . Xin hỏi bà con quán Gió , có ai biết rỏ về chuyện này không?
Tác giả PDK chỉ nói lướt qua , không dẫn chứng và cũng không giải thích một lời nào về 2
 sáng tạo văn tự & Quy lịch. Có vẻ như chỉ liệt kê  khơi khơi , còn kém ông Kim Định xa,
khi ông này dành Nho Học của Khổng Khâu cho dân tộc Việt ( ô.Kim Định gọi là Việt Nho)
Câu hỏi đơn giản : Một bộ tộc ( trước thời Hùng Vương hàng ngàn năm) , nhân số vật lực thế nào 
mà có thể làm ra văn tự & Lịch? Nếu gọi là Việt Thường THỊ, chẳng phải chỉ là một bộ tộc mà 
nhân số còn rất khiêm nhường?
(2)Nếu đem các "Truyền thuyết" và huyền sử thần thoại để làm nền mà nói về gốc tích một dân tộc,
UN e là sẽ bị dắt đi vào vùng sương mù của thời hồng hoang ảo mị . Chúng ta đọc sử , chứ có phải được
" đấm lưng " đâu ? 
Khi, niềm tự hào dân tộc được vuốt ve , thì ý thức logic khoa học sẽ biến mất.!
.......
Chia sẻ về " chữ quốc ngữ" với anh Ba : Theo UN, Việt ngữ cũng đã khá hoàn hảo . Chuyện chính tả so với ngữ pháp 
thì không có sai lầm nào lớn. Chỉ là Việt Nam không có sự " thống nhất" khi viết/ nói Việt ngữ.
Thiếu tính " thống nhất" và tính nhất quán . VN không có quán nào bán 2 món đó, đành chịu!
Quán Gió mình có bán không , bà con ?
Thân 
UN.